Tên di sản : Đình Miễu Nhị

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : Số 3018/QĐ-UBND

Giới thiệu

Đình Miễu Nhị nằm ở bên bờ phía đông của dòng Trà Giang xinh đẹp như một bức tranh của làng Miễu Nhị. Đình dựng hướng Nam. Ở đây rất thuận tiên về giao thông thủy bộ. Vì vậy khu vực này từ lâu đã là một trong những đầu mối giao lưu thương mại quan trọng trong lịch sử. Nó lại còn là miền đất chứng kiến nhiều cuộc hành binh lớn của những đạo quân trên dòng sông Lèn chảy qua địa phận Liên Lộc.

Do cảnh quan là miền đất cát; 10 xã phía Đông của huyện Hậu Lộc, trải dài 10km từ Bắc xuống Nam, tạo thành hai vệt cát pha hai bờ kênh De, với một trục đường xuyên suốt từ bắc xuống nam trên một dãy cồn cát tạo nên cho vùng đất này sầm uất so với nhiều νùng khác. Với những tuyến đường liên huyện, liên xã đi qua, khu vực này cũng đã từng là hậu phương trực tiếp của chiến khu Ba Đình nổi tiếng.

Trong lịch sử của thời kỳ Cần vương chống Pháp, nó từng là vùng hoạt động từ Hậu Lộc sang Nga Sơn, Hà Trung của các chiến sĩ cộng sản ở thời kỳ bí mật trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Giở đây, vị trí này vẫn còn nhiều mặt thuận lợi.

Về phía Bắc của ngôi đình là vùng đất cát của xã Quang Lộc và dòng sông Lèn lịch sử - là ranh giới của hai huyện Hậu Lộc và Nga Sơn. Dòng Trà Giang ở phía Tây, tuy bị thời gian bồi lấp, song nó vẫn là huyết mạch giao thông quan trọng là một nguồn nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp cho nhân dân quanh vùng. Về phía Nam của ngôi đình qua cánh đồng màu của cây ngô và cây lạc là xã Hoa Lộc – Nơi có đi chỉ khảo cổ học thời tiền Đông Sơn (sơ kỳ thời đại đồng thau) cách đây khoảng 4 nghìn năm. Phía đông là vùng dân cư đông đúc của làng Thắm và dòng sông Lèn chạy xiết quanh năm. Dải đất phía Tây của ngôi đình là cả một vùng dân cư rộng lớn chạy dài từ phía Bắc xuống Nam bao gồm các xã Phong Lộc, Cầu Lộc, Tuy Lộc, Lộc Tân sầm uất.

Có thể nói: Địa điểm xây dựng ngồi đình ở làng Miễu Nhị chẳng những là có vị trí giao thông thủy bộ thuận tiện mà còn là nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ và hùng võ.

Về quy mô cấu trúc:

Không gian mặt bằng của đình được bố cục theo kiểu chui vô (chữ đinh J) tức là bao gồm: tiền đường và hậu cung. Nhà hậu cung đã bị phá bỏ hoàn toàn chỉ còn lại nền móng. Nhà tiền đường bao gồm 5 gian với diện tích sử dụng là 210m(dài 20m x rộng 10,5m) về phần hậu cung làm ở gian giữa để đặt bàn thờ là 12m(dài 4 mét x rộng 3 mét). Phía trước tiền đường là sân đình dài 45m, rộng 12m với một cổng trụ ra vào. Đặc biệt là phần trụ cổng trụ (cổng đình) đã được sữa chữa, xây thêm do việc thu nhỏ sân đình lại. Vì thế mà phía trước ngồi đình có hai lớp trụ: Cổng trụ phía ngoài là cổng trụ xưa được xây đắp vôi vữa đẹp và trang trí hoa văn hình các con giống. Trên bề mặt được đắp nổi những câu đối bằng chữ Hán. Do thời gian lâu ngày nên những câu đói này đã bị mờ gần hết chỉ còn lại một số chữ.

Nằm giữa hai cổng trụ là bức bình phong được đắp nổi hình hoa lá chủ yếu là lá cúc nổi. Toàn bộ cổng trụ và bức bình phong rêu phong cổ kính này còn lại ở phía ngoài chứng tỏ đình trước đây còn quy mô lớn mà những dấu ấn kiến trúc tài hoa còn lại trên các cổng trụ là những bằng chứng sinh động để khẳng định quy mô và kiến trúc của đình trước đây.

Cổng trụ phía trong mới được xây dựng lại, đó là dấu tích của một thời mà sự thu hẹp diện tích sân đình có lẽ là nằm trong thời kỳ bài phong trước đây. Cổng trụ này được kiến trúc theo kiểu tam quan của một ngôi chùa gồm cửa lớn ở giữa và hai cửa nhỏ hai bên. Ở cửa lớn được thiết kế gồm cửa lớn được thiết kế gồm hai tầng mái (kiểu chồng diêm) được trang trí đắp vôi vữa ngói ống và mái cong. Ở khoảng giữa tần mái để ô văng trống đắp nổi ba chữ Hán “Tối linh từ”. Hai bên cột trụ được viết hai cấu đối bằng chữ Hán.

Nhìn chung, quy mô cấu trúc của đình Mẫu Nhị có diện tích lớn vào bậc nhất, so với tất cả các ngôi đình còn lại trên đất Hậu Lộc. Nó chỉ có thể đứng sau đình làng Phú Điền, xã Triệu Lộc. Hơn nữa, đình Miễu Nhị lại còn là nơi tế tự, hội hề lớn của nhân dân toàn vùng. Vì thế mà ngoài nghi môn ở xã Hoa Lộc thì đình Miễu Nhị là nơi tụ họp của nhiều khách thập phương, vì lẽ đó mà ngôi đình lảng Miễu Nhị là một di tích trọng điểm nổi tiếng của huyện Hậu Lộc không chỉ vì là nơi thờ nữ thần là nguyên phi Ỷ Lan, mà còn là công trình kiến trúc có giá trị.

Về nghề thuật kiến trúc: mặt bằng kiến trúc đình được cấu tạo 5 gian, với tổng số cột là 26 cột được bố trí thành 4 hàng chân cột, 12 cột lớn và 14 cột quân. Riêng về phần hiên đình, các xà ngang chạy đua ra tường dốc để tạo thành mái đã bị thay thế. Các cửa ra vào ở hai bên, còn gian giữa thì lại được xây bị lại, chỉ để tróng bằng cách trang trí chữ thọ hình tròn.

Nhìn chung dấu ấn kiến trúc của đình, ta biết được, trước đây mái đình được cấu tạo cong lên ở bốn góc mái, nhưng do quá trình tư sửa, mái cong đã bị thay thế hoàn toàn. Tuy vậy, nhìn ở phần trong kiến trúc ta vẫn thấy ngôi đình thanh thoát, thoáng đản, nhẹ nhàng, cảm giác như bay bổng. Đặc biệt trên hai mái của đình, lớp ngói mãi đã bị thay thế đi nhiều, các đường bờ giải, bờ nóc được đắp lại thô, trang trí hoa văn trên mái không có gì đặc biệt. Thoạt nhìn, ta có cảm giác như một ngôi nhà thông thường mà cư dân đồng bằng và trung du bắc bộ thường làm những năm đầu thế kỷ này.

Tuy vậy, giá trị kiến trúc to lớn của ngôi đình vẫn là phần kiến trúc gỗ bên trong.

Kết cấu vì kèo chính gồm 6 vì kèo, hoàn toàn giống nhau về kiểu liên kết, chủ yếu là theo lối “Chồng rường kẻ bay”, sự khác nhau chỉ là ở cách bố cục và trang trí hoa văn ở các vì kèo (Đặc biệt là hai vì kèo sát tường vĩ).

Cấu tạo vì kèo là một bộ khung gỗ hình chữ nhật gồm bốn hàng chân cột, hai hàng cột lớn và hai hàng cột quân. Hàng cột quân ở hiên trước và hiên sau liên kết với những kẻ bẩy cùng với xà ngang (xà hiên) để tạo nên mái hiên ở cả hai phía trước và sau. Tuy vậy, ở mái hiên trước, các kẻ bẩy ăn mộng vào đầu cột quân chạy ra nằm trên xà ngang của tường đốc, tạo nên một tam giác vuông trên cấu trúc gỗ mái hiên. Toàn bộ hệ thống kẻ bẩy và xà ngang này đã bị thay thế trong mấy chục năm trở lại đây. Mái hiên sửa thì các kẻ bẩy và xà ngang vẫn còn dấu vết của kiến trúc cũ.

Ở bộ vì nóc, mái trên về cơ bản được cấu tạo hoàn toàn giống nhau. Trên đầu họng của hai cột lớn là quá giang. Phía trên quá giang là hai đấu trụ được tạo tác theo kiểu hình trụ, được đục mộng vào thân quá giang và đấu trụ, được nằm trên đầu bắt hình vuông. Những đấu trụ này cũng đục mộng để gắn khâu đầu vào. Liên tiếp là hai khâu đầu. Sau cùng là đấu bát đỡ thượng lương. Để đỡ các hoành tải ở phía trên là ba lớp các kẻ bẩy (cong) chuyền nhau từ khâu đầu ở phía trên cùng cho đến tận tường đốc. Để nối các vì kèo này với nhau là các hàng xà dọc bao gồm bốn hàng. Hàng xà dọc nằm dưới quá giang trong tổng số 6 vì gồm 10 chiếc, hàng xà dọc nằm sát quá giang cũng gồm 10 chiếc. Nhưng 10 chiếc xà này lại làm nhiệm vụ của các hoành tải (thay hoành tải) đỡ mái.

Nhìn chung, trên một vì kết cấu kiến trúc tuân theo một qui luật đăng đối. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó chưa phải là tuyệt đối, ngoài tính chất tạo sự vui mắt mang tính nghệ thuật, thì những đầu trụ này còn chứa đựng một sự khỏe mạnh chắc chắn để phối hợp với những yếu tố khác như quá giang, khâu đầu, kẻ bẩy....tạo nên sự bề thế của không gian kiến trúc ngôi đình.

Như vậy, trong tổng số 5 gian với 6 vì kèo, cấu tạo của các vì kèo này cơ bản giống nhau về kiểu liên kết. Khác nhau chỉ có sự chạm trỗ và sự đậm nhạt của các lá cúc cách điệu trên các đầu bát, con rường, kẻ bẩy ở các vì kèo.

Nghệ thuật trang trí và điêu khắc trong đình thuần chỉ là những hoa văn đường truyền và lá cúc cách điệu, không có chạm trỗ các con rồng và các linh vật khác. Điều này cũng phản ánh nội dung của nơi thờ tự của sinh hoạt dân gian của ngôi đình thông qua nghệ thuật chạm khắc của ngôi đình.

Tóm lại: Với quy mô và nghệ thuật kiến trúc còn lại ở ngôi đình, cho dù đình Miễu Nhị không có những bức chạm khắc mang tính nghệ thuật cao, nhưng kỹ thuật tạo dáng cùng với qui mô kiến trúc bề thế, đình Miễu Nhị được xem là một công trình tiêu biểu về một kiểu “kiến trúc địa phương” (Kiến trúc vùng) thời Lê ở Thanh Hóa. Cho dù có bề dày về thời gian tồn tại, nhưng hiện tại đình Miễu Nhị đang đi bị xuống cấp nghiêm trọng nhất là bộ khung gỗ bên trong và diện mạo ở phía ngoài.

Nó cần được giữ gìn, tu bổ và trả lại dáng vẻ xưa. Có thể còn nhiều ý nghĩa khác nữa, nhưng dù sao ngôi đình Miễu Nhị với nhân vật được thờ được xem như là một anh hùng văn hóa, đình Miễu Nhị vẫn là một di tích có giá trị lớn.

Các hiện vật có trong di tích:

Đình Miệu Nhị là một di tích lớn cả về quy mô kiến trúc và giá trị văn hóa nghệ thuật. Các nguồn tài liệu cùng với lời truyền kể của những già làng, có nói nhiều đến những hiện vật quý giá của di tích này, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên những hiện vật này bị thất lạc và mất mác đi nhiều. Tuy vậy, di tích vẫn còn lưu giữ được những hiện vật có giá trị như:

Một pho tượng nguyên phi Ỷ Lan (tượng bà), sơn son thiếp vàng.

Một bài vị cổ gồm 350 chữ Hán (được phiên âm và dịch nghĩa ở phần trên).

Hai bát hương đá.

Một bát hương gốm.

Một khách đá (dài 1,70m x rộng 0,85m).

2 chuông đồng cùng với 2 giá gỗ loại nhỏ.

1 cây nến gỗ loại cổ.

3 khay mịch.

4 đài rượu cổ.

5 đĩa gồm thời Lê – Nguyễn.

4 cây nến gỗ.

1 án thư.

1 lư hương đồng.

1 hòm gỗ đựng áo thờ.

1 hòm đựng đạo sắc.

Ngoài ra, còn có một số đồ thờ có giá trị khác như chúc thư, chén thờ...

Hình ảnh Đình Miễu Nhị

Đình Miễu Nhị

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật